Thánh Kateri Tekakwitha
(1656-1680)
Máu các vị tử đạo là hạt giống nẩy sinh
các thánh. Chín năm sau khi các linh mục dòng Tên là Cha Isaac Jogues và Jean de
Brebeuf bị các thổ dân da đỏ Huron và Iroquois tra tấn cho đến chết, một bé gái
đã chào đời gần nơi các vị tử đạo, ở Auriesville, Nữu Ước. Cô là thổ dân da đỏ
đầu tiên thuộc vùng Bắc Mỹ được phong chân phước. Mẹ cô là một Kitô Hữu người
Algonquin, bà đã bị người Iroquois bắt và buộc phải làm vợ của tù trưởng bộ lạc
Mohawk, là bộ lạc dũng cảm và tàn bạo nhất trong Ngũ Quốc.
Khi lên bốn tuổi, Kateri mất cha mẹ và cả
đứa em trai trong trận dịch đậu mùa mà chính cô cũng bị gần như mù và khuôn mặt
bị méo mó. Cô được một người chú đem về nuôi sau khi ông lên kế vị cha cô làm tù
trưởng. Ông không thích các tu sĩ A¨o Ðen nhưng ông không thể làm gì được vì một
thỏa ước ký kết với Pháp, buộc phải có sự hiện diện của tu sĩ trong các làng có
người Kitô Giáo bị bắt giữ. Kateri rất thích nghe các vị tu sĩ A¨o Ðen giảng
thuyết, nhưng chú cô lại sợ rằng cô sẽ theo đạo Công Giáo. Thật vậy, khi lên 19
tuổi, sau khi từ chối lời cầu hôn của một thanh niên Mohawk, vào Chúa Nhật Phục
Sinh, cô đã được rửa tội và lấy tên thánh là Kateri (Catarina).
Bây giờ cô bị đối xử như một người nô lệ.
Vì cô không làm việc ngày Chúa Nhật nên cô không được lãnh thực phẩm trong ngày
ấy. Ðời sống ơn sủng của cô gia tăng mau chóng. Cô nói với một vị thừa sai rằng
cô thường suy niệm về ơn cao trọng khi được rửa tội. Cô rất cảm kích bởi tình
yêu mà Thiên Chúa dành cho loài người và cô nhìn thấy phẩm giá nơi mỗi một người
dân. Cô luôn luôn trong tình trạng nguy hiểm, vì sự trở lại đạo và đời sống
thánh thiện của cô đã tạo nên sự chống đối dữ dội. Theo lời khuyên của một linh
mục, một đêm kia cô bỏ trốn và đi bộ 200 dặm đến một làng da đỏ Công Giáo ở
Sault St. Louis, gần Montreal (Gia Nã Ðại).
Trong ba năm, Kateri ngày càng thánh thiện
dưới sự dẫn dắt của một linh mục và một bà người Iroquois. Cô hiến mình cho
Thiên Chúa qua những giờ cầu nguyện, làm việc bác ái và tích cực ăn chay hãm
mình. Từ sáng sớm cô đã đứng chờ nơi cửa nhà thờ để dự lễ lúc 4 giờ sáng và ở
lại đó cho đến Thánh Lễ cuối cùng. Cô đặc biệt sùng kính Thánh Thể và Ðức Giêsu
trên Thánh Giá.
Vào năm 23 tuổi, Kateri thề giữ mình đồng
trinh, đó là một hành động bất thường của một phụ nữ da đỏ, là người chỉ sống
nhờ vào chồng. Cô lập một cái chòi trong rừng vắng để cầu nguyện hàng ngày và bị
dèm pha là để gặp gỡ một người đàn ông! Việc cô thề giữ mình đồng trinh là một
hành động theo bản năng, vì cô không biết trong Giáo Hội có đời sống tu trì dành
cho nữ giới, mãi cho đến khi cô đến Montréal. Thấy vậy, cô phấn khởi cùng với
hai người bạn định tâm thành lập một tu hội, nhưng vị linh mục địa phương đã
ngăn cản cô. Rất khiêm tốn, cô chấp nhận một cuộc sống "bình thường" mà trong
đó, cô ăn chay hãm mình một cách khắt khe như để đền tội cho dân tộc của cô.
Vào ngày 7 tháng Tư 1680, cô từ trần vào
buổi tối trước Thứ Năm Tuần Thánh, mới hai mươi bốn tuổi. Các nhân chứng cho
biết, lúc ấy khuôn mặt hốc hác của cô đổi màu và tươi tắn như một đứa trẻ khỏe
mạnh. Các nếp nhăn, ngay cả các vết rỗ trên khuôn mặt cũng biến mất và một nụ
cười hé nở trên môi cô.
Người da đỏ gọi cô là "Hoa huệ người
Mohawk". Sự ngưỡng mộ Kateri đã giúp hình thành các trung tâm truyền giáo cho
người da đỏ ở Hoa Kỳ và Gia Nã Ðại. Kateri được phong chân phước năm 1980.
Lời
Bàn
Chúng ta thường nghĩ đời sống thánh thiện
bị cản trở bởi hoàn cảnh, và ước chi chúng ta có thêm thời giờ riêng tư, ít bị
quấy rầy hay chống đối và được khoẻ mạnh hơn. Chân Phước Kateri đã chứng minh
cho thấy, sự thánh thiện triển nở trên thập giá, ở bất cứ đâu. Tuy nhiên, ngài
đã có những gì mà mọi Kitô Hữu phải cần, đó là sự hỗ trợ của một cộng đoàn.
Ngài có một người mẹ tốt lành, có các linh
mục tận tình giúp đỡ và các bạn Kitô Hữu. Những điều kiện này được gọi là tiên
khởi, và chỉ sinh kết quả nếu quyết tâm thi hành ba nguyên tắc cổ xưa của Kitô
Giáo là cầu nguyện, ăn chay và bố thí: kết hợp với Thiên Chúa qua Ðức Giêsu Kitô
và Chúa Thánh Thần, tự khắc phục con người của mình để vượt qua những đau khổ,
và sống bác ái đối với anh chị em.
Lời
Trích
"Tôi không cô đơn vì tôi đã tận hiến cho
Ðức Giêsu. Ngài là tình yêu duy nhất của tôi. Tôi không sợ tình trạng bơ vơ
nghèo nàn vì không lấy chồng. Tất cả những gì tôi cần là một chút thực phẩm và
một vài quần áo. Với công việc tay tôi làm ra, tôi sẽ có những gì tôi cần, và
những gì còn dư tôi sẽ cho người bà con và người nghèo. Nếu tôi bị bệnh và không
thể làm việc được, tôi sẽ trở nên giống Chúa trên thập giá. Ngài sẽ thương xót
tôi và giúp đỡ tôi. Tôi biết chắc như thế."
Trích từ NguoiTinHuu.com